THD - DienHong

Go to content
Lễ Tưởng Niệm Đức Trần Hưng Đạo - 2015

Lễ Tưởng Niệm Đức Thánh Trần Hưng Đạo đã được tổ chức vào ngày 4 tháng 10 năm 2015. Xin coi Hình ảnh YouTube của buổi lễ.
Sinh Hoạt Trong Ngày Lễ Tưởng Niệm Đức Trần Hưng Đạo
Húy Nhật Đức Trần Hưng Đạo
Để Nhớ Ơn Công Đức Của Người
Nói đến Đức Trần Hưng Đạo, người Việt Nam không ai là không nhớ tới đoạn sử oai hùng của nước nhà về triều đại nhà Trần, đã ba phen phá tan quân Mông Cổ xâm lược, giữ được toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
 
Quân Mông Cổ thời đó rất mạnh và hung bạo nhất thế giới.  Chúng đã thôn tính toàn cõi Trung Quốc, lấn chiếm hết vùng Trung Á, Ba Tư, kéo quân đến tận Đông Bắc Âu Châu.  Ở Bắc Á, chúng đã đánh Tây Hạ, đánh nước Kim, rồi tràn sang Triều Tiên.  Vó ngựa của chúng đi tới đâu là người chết tới đó, gà không dám gáy, cỏ mọc không nổi…  Vậy mà ba lần chúng xâm lăng nước ta, là ba lần chúng đại bại, hao binh tổn tướng rất nhiều; đến nỗi chủ tướng của chúng, trong chuyến xâm lăng lần thứ ba, đã phải chui vào ống đồng mới trốn thoát khỏi cung kiếm của quân ta.
 
Quân ta đã thắng là nhờ tài điều binh khiển tướng của Hưng Đạo Vương.
 
Ba lần chiến thắng vinh quang của dân tộc ta thời đó đã đưa nước Việt Nam vào vị trí những dân tộc oanh liệt hàng đầu.
 
Húy nhật Đức Trần Hưng Đạo là để nhớ đến công ơn của Người, vị đại anh hùng, cũng là nhắc tới một giai đoạn vẻ vang của dân tộc.
Trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca, có ghi lại đoạn sử oai hùng đó bằng những vần thơ hùng tráng sau đây:
Rợ Nguyên quen thói tham tàn
Quân năm mươi vạn những toan tranh giành
Sắc sai Hưng Đạo Tổng Binh
Với Trần Quang Khải các dinh tiến vào
Chương Dương một trận phong đào
Kìa ai cướp giáo ra vào có công?
Hàm Quan một trận ruổi rong
Kìa ai bắt giặc uy phong còn truyền!
Giặc Nguyên còn muốn báo đền
Mượn đường hộ tống, binh thuyền lại sang
Bạch Đằng một cõi chiến tràng
Xương phơi trắng đất, máu đào đỏ sông
Trần Hưng Đạo đã anh hùng
Mà Trần Nhật Duật kể công cũng nhiều
Hoài Văn tuổi trẻ trí cao
Cờ đề bốn chữ quyết vào lập công
Trần Bình Trọng cũng là trung
Đành làm Nam quỷ, không làm Bắc vương
Khuyển, ưng còn nghĩa đá vàng
Yết Kiêu, Dã Tượng hai chàng cũng ghê
Mà trong ngọc diệp kim chi
Lũ Trần Ích Tắc sao đi đầu hàng?
Nhân khi biến cố vội vàng
Người trung kẻ nịnh đôi đàng tỏ ra
Trùng hưng đem lại sơn hà…

Công trạng của Đức Trần Hưng Đạo quá to lớn nên đã được phong tới chức Thái Thượng Phụ Quốc Công Bình Bắc Đại Nguyên Soái.
 
Để nhớ ơn vị đại anh hùng của dân tộc, nhân dân Việt Nam khắp nơi đã tự động xây đền thờ Ngài và việc thờ phụng, cầu khẩn Ngài cũng đã nhiều nơi, nhiều lần thể hiện các việc linh ứng uy vũ, chứng tỏ Ngài là vị “Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần” lúc nào cũng phò quốc gia, hộ dân tộc, mà đời lịch sử Việt Nam hiếm có.
 
Đền thờ Ngài thì rất nhiều, hầu như khắp nước, làng xã, đô thị nào cũng có.  Sau đây là một vài đền thờ nổi tiếng, đã trở thành hội hè hằng năm cho thập phương bá tánh tới chiêm bái, những hội đền đã đi vào lịch sử.
 
HỘI ĐỀN KIẾP BẠC
 
Đền Kiếp Bạc được xây tại làng Vạn Yên, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương từ năm Canh Tý 1300, tức là năm Hưng Đạo Vương qua đời.
 
Đền tựa lưng vào núi Dược Sơn, một ngọn núi ở giữa một dẫy núi ba ngọn, hai ngọn là núi Nam Tào và núi Bắc Đẩu, trên đỉnh hai ngọn đều có đền thờ lưỡng vị tinh quân Nam Tào, Bắc Đẩu.
 
Mặt Đền Kiếp Bạc trông ra Lục Đầu Giang, nơi ba con sông Nhật Đức (gọi nôm là Sông Thương), Nguyệt Đức (Sông Cầu) và Thiên Đức (Sông Duống), gặp sông Lục Nam, sông Thái Bình và sông Kinh Môn.
 
Trước đền có bãi đất rộng gọi là bãi Kiếm mà tục truyền là nơi xưa kia Hưng Đạo Vương đã hành quyết Phạm Nhan.
 
Trên cổng đền có đề năm đại tự: TRẦN HƯNG ĐẠO VƯƠNG TỬ.
 
Trên hai cột trụ của cổng, có đôi câu đối của Thám Hoa Vũ Phạm Nhàn:
 
Vạn Kiếp núi cao hơi kiếm tỏa
Lục Đầu nước chảy tiếng thu vang
 
Qua chiếc cổng lớn này là một khoảng sân rộng rãi bao la với những cây đa cổ thụ cao ngất um tùm, rồi đến ngôi đền kiến trúc theo lối xưa thật uy nghi cổ kính.
 
Trong đền, ngoài bàn thờ Hưng Đạo Vương, còn có bàn thờ song thân Ngài, bàn thờ con trai Ngài là Hưng Nhượng Vương và Hưng Vũ Vương, bàn thờ các con gái Ngài là Quyên Thanh và Đại Hoàng, bàn thờ con rể Ngài là Hổ tướng Phạm Ngũ Lão, lại còn có cả bàn thờ hai gia tướng là Yết Kiêu và Dã Tượng.
 
Điều đáng chú ý là cùng với các vị trên, tại đền Kiếp Bạc lại có cả bàn thờ một viên tướng nhà Nguyên là Nguyễn Bá Linh tức Phạm Nhan.
 
Theo tục truyền thì viên tướng này có tà thuật, đã bị Hưng Đạo Vương dùng gươm thiêng giết chết.  Phải chăng việc lập bàn thờ y là có dụng ý để hậu thế biết Đức Thánh Trần Hưng Đạo có cả uy diệt trừ tà thuật.
 
Trên vách tường đền Kiếp Bạc có bài thơ Nôm không đề tên tác giả, nêu rõ công trạng oai hùng của Hưng Đạo Vương trong cuộc chống quân xâm lược Mông Cổ:
 
Nghiêng trời lệch nước cuộc đao binh
Việc nước an nguy hệ một mình
Núi Kiếp bao phen quân Việt thắng
Sông Đầu một trận giặc Nguyên kinh
Rắp đem văn vũ tài vô địch
Nguyện rửa non song tiếng bất bình
Tháng Tám dâng hương đền Kiếp Bạc
Vẫn còn hiển hiện khí oai linh.
 
Hội đền Kiếp Bạc mở vào ngày 20 tháng Tám âm lịch mỗi năm tức là vào ngày giỗ Đức Trần Hưng Đạo.  Nhưng ngay từ đầu tháng Tám, đền đã mở cửa để khách thập phương hành hương chiêm bái.  Mỗi năm khách trẩy hội đền Kiếp Bạc rất đông từ khắp các miền xa gần.
 
HỘI ĐỀN BẢO LỘC
 
Đền Bảo Lộc xây tại xã Bảo Lộc, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định là sinh quán của Hưng Đạo Vương.  Hằng năm vào ngày giỗ của Ngài, dân làng mở hội kỷ niệm vào ngày 20 tháng Tám âm lịch.  Đồng bào thuộc các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam đều tới lễ bái tại đền Bảo Lộc. Có rất nhiều người đã đi trẩy hội đền Kiếp Bạc trước ngày chính lễ, đến ngày Khánh Kỵ cũng lại tới đền Bảo Lộc dự lễ.
 
HỘI XÃ YÊN CƯ
 
Xã Yên Cư thuộc tổng Xuân Dương, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, ở giáp bờ sông Đáy, trông sang bên kia là tỉnh Nam Định, thuộc địa phận xã Phú Hào.
 
Xã Yên Cư có đền thờ Hưng Đạo Vương, tháng Tám âm lịch hằng năm, dân chúng tại Yên Cư và các xã lân cận như Đa Giá, Yên Khê, Yên Đồng… họp nhau mở hội rất to để chiêm bái Ngài.
 
Trên đường Hiền Vương, Sài Gòn, có đền thờ Đức Trần Hưng Đạo, xây theo lối cổ với nhiều hoa văn Long Ly Quy Phụng rất khởi sắc linh động uy nghi.  Hằng năm đến Húy Nhật của Ngài, đền có tổ chức lễ tế rất long trọng kéo dài cả tuần lễ.

Không rõ đền này được xây từ bao giờ, nhưng từ năm 1975 thành phần Ban Trị Sự Đền đa số là người Miền Bắc di cư, nên việc tế lễ được tổ chức theo lối Bắc, không những bởi các nam quan mà còn tế bởi các nữ quan, nên thu hút rất đông người tới hành hương chiêm bái.
Không biết dưới chế độ cộng sản vô thần hiện nay tại Việt Nam, các đền thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo có còn không và nếu còn đó thì có được tổ chức các kỳ hội đền và lễ bái nhân dịp Húy Nhật của Ngài nữa không?
Phạm Ngọc Linh
(tài liệu của Toàn Ánh, 1992)
CHÚ THÍCH
 
ĐỨC HƯNG ĐẠO VƯƠNG
 
TRẦN QUỐC TUẤN
1228-1300
DANH TƯỚNG KIỆT XUẤT NHẤT CỦA THẾ GIỚI THỜI TRUNG CỔ
NIỀM HÃNH DIỆN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
 
Tháng Hai năm 1984, Viện Khoa Học Hoàng Gia Anh Quốc (British Royal Society) đã triệu tập một phiên họp gồm 478 nhà khoa học và lịch sử quân sự của các nước, phần đông cũng là các nhà quân sự có vai vế của thế kỷ, để bầu ra mười (10) vị tướng soái kiệt xuất nhất trong lịch sử nhân loại, qua các thời đại thượng cổ, trung cổ, cận và hiện đại.  Mục đích là để in vào Bách Khoa Toàn Thư Anh Quốc – Encyclopedia Britannica.
Sau khi liệt kê chín mươi tám (98) vị thống soái tài ba nhất của các nước trên thế giới, đại hội đã bầu: Thời trung cổ ba (3) vị, cận đại bốn (4) vị và hiện đại hai (2) vị.  Đa số các vị thống soái chỉ được 70% số phiếu bầu.  Riêng thời trung cổ, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị tướng soái duy nhất được chọn với tuyệt đại đa số phiếu 100%.  Điểm đáng chú ý là trong số phiếu bầu còn ghi rõ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã thắng kẻ thù mạnh nhất thế giới là quân Nguyên Mông.
Như vậy có nghĩa là giờ đây thế giới đã phải khách quan nhìn nhận rằng việc đại thắng quân Nguyên Mông của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nói riêng và của người Việt Nam nói chung có tầm ảnh hưởng lớn lao đến nền an ninh toàn cầu.  Nói khác đi, dân tộc Việt Nam đã có công lớn đối với nền an ninh thế giới và với nhân loại.
Đức Thánh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là anh hùng của thế giới và là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
 
(theo sách Vẻ Vang Dân Việt tập III và Encyclopedia Britannia)
Lễ Tưởng Niệm Đức Trần Hưng Đạo
Năm 1975, sau khi thôn tính Miền Nam và thống trị toàn đất nước, bạo quyền Cộng Sản Hà Nội (CSHN) đã thiên về Liên Bang Sô Viết và có thái độ chống Trung Quốc. Là người Việt Nam lưu lạc dù thao thức về sự khốn cùng của đồng bào trong nước, dưới sự tham tàn của CSHN, song cũng yên tâm đôi phần về hiểm họa xâm lăng gậm nhấm của kẻ thù phương Bắc. Đến năm 1979, Đặng Tiểu Bình được sự thông đồng của Mỹ đã xua quân xâm lăng Việt Nam để dạy cho bạo quyền CSHN một bài học mà Liên Bang Sô Viết không can thiệp, từ đó Việt Nam dần dần rơi vào quỹ đạo của Trung Cộng (TC). Năm 1991, Liên Bang Sô Viết tan rã, Trung Cộng và CSHN thoát khỏi sự sụp đổ. Từ đó, TC nghiễm nhiên đóng vai trò lãnh đạo khối cộng sản và bạo quyền CSHN hoàn toàn thần phục TC. Qua bối cảnh này, Hội Diên Hồng nhận thức rằng họa tái xâm lăng gậm nhấm của kẻ thù truyền kiếp của dân tộc đã khởi sự tái diễn. Nhằm cảnh giác hoạ ngoại xâm và khơi dậy lòng yêu nước cùng tự hào dân tộc của người Việt hải ngoại, nên hội Diên Hồng tổ chức Lễ Tưởng Niệm Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, vị Thống Soái kiệt xuất nhất thời trung cổ, người đã ba lần lãnh đạo toàn quân, toàn dân Việt Nam đánh bại đạo quân xâm lược Nguyên Mông.

Ngày nay tham vọng bá quyền của TC cũng chẳng khác gì tham vọng của Mông Cổ ngày xưa. Có khác chăng là TC chưa động binh mà chỉ dùng quỷ kế, bề ngoài thì dương oai để làm bàn đạp cho sự gậm nhấm các lân bang cũng như các quốc gia đang lệ thuộc vào nền kinh tế của TC. Quỷ kế này còn nguy hiểm, thâm độc hơn việc ồ ạt kéo quân xâm lăng như Mông Cổ đã làm. Chiến lược gậm nhấm của TC sẽ hủy hoại lòng yêu nước và đồng hóa các dân tộc lụy thuộc theo thời gian. Đất nước và dân tộcViệt Nam của chúng ta dưới sự thống trị của bầy thái thú và đảng cướp CSVN đang trong tình trạng nguy hiểm này. Sự tồn vong của đất nước và dân tộc tùy thuộc vào sự thức tỉnh kịp thời của đại thể dân tộc Việt Nam. Do đó, việc tổ chức tưởng niệm và suy tôn Đức Trần Hưng Đạo nói riêng và các anh hùng liệt nữ của dân tộc nói chung, để khích động niềm tự hào và lòng yêu nước của mọi người dân Việt là việc làm cần thiết và phải trường kỳ.

Thể hiện quan niệm này, giữa thập niên 2000, Hội Diên Hồng đã mời thêm Trường Võ Thuật Cổ Truyền Bình Định và Liên Đoàn Hướng Đạo Bạch Đằng cùng tham gia tổ chức Lễ Tưởng Niệm Đức Trần Hưng Đạo. Trong năm năm qua, được sự hợp lực của Gia Đình Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa Vùng New England, Hội Phụ Nữ Cờ Vàng/NE, Hội Phụ Nữ Việt Nam/Mass và Vùng Phụ Cận, Liên Đoàn Hướng Đạo Bạch Đằng, Môn Phái VOVINAM Việt Võ Đạo/Boston, và Trường Võ Thuật Cổ Truyền Bình Định/MA, Lễ Tưởng Niệm Đức Trần Hưng Đạo đã được tổ chức thật quy mô và long trọng. Ngoài nghi thức tế lễ Ngài trong hội trường của trường học Saint Gregory, trong ba năm qua còn có thêm phần rước Kiệu Linh Vị Ngài trên đường Dorchester Avenue. Sở Giao Thông Boston đã chấp thuận cho đóng đường Dorchester trước trường St. Gregory trong thời gian mười lăm phút để các con dân Việt có thể rước Kiệu Linh Vị Đức Thánh từ sân đậu xe của trường học xuống đường Dorchester Ave. để vào lễ đài trong hội trường.

Trong tình trạng tăm tối của đất nước trước thảm trạng thù trong, giặc ngoài, có lẽ không gì hơn là mọi người dân Việt cần ôn lại những lời dạy của Đức Thánh Trần qua bài HỊCH TƯỚNG SĨ. “Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ khư khư thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được?

Các ngươi Vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà đem thành Điếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu! Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt! Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.

Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?

Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo, mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?

Nay ta bảo thật các ngươi: Nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu, mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?

Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.
Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm
nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa? Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.”
From Wikipedia, the free encyclopedia



Back to content